Lãi suất là một chỉ số quan trọng đối với thị trường tài chính, có tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế nói chung. Mọi biến động của lãi suất được đưa tin hầu như hàng ngày trên báo chí vì nó trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của mỗi người chúng ta và có những hệ quả quan trọng đối với sức khỏe của nền kinh tế.
Là một biến số kinh tế nhạy cảm, sự thay đổi của lãi suất sẽ tác động làm thay đổi hành vi sản xuất và tiêu dùng của xã hội. Về phương diện lý thuyết cũng như thực tiễn các nước đã chứng minh, sự thay đổi lãi suất sẽ có tác động nhạy cảm đến tăng trưởng của nền kinh tế. Ngoài ra, nếu như xem tiết kiệm và đầu tư là hai trong những công cụ quan trọng nhất để tăng trưởng kinh tế thì lãi suất luôn được coi là yếu tố quan trọng quyết định đến việc tiết kiệm và đầu tư.
Những tác động quan trọng của lãi suất bao gồm việc tăng hoặc giảm khối lượng tiền lưu thông, thu hẹp hay mở rộng tín dụng, khích lệ hay hạn chế huy động vốn, kích thích hay cản trở đầu tư, tạo lợi nhuận hay khó khăn cho hoạt động ngân hàng.
Trong bài viết này, Vnrebates sẽ cùng các bạn tìm hiểu về những ảnh hưởng của lãi suất đến sự phát triển của nền kinh tế, vai trò điều tiết lãi suất của Ngân hàng Trung Ương (NHTW) và phân tích những động thái trong chính sách tài khóa và tiền tệ thông qua việc giảm lãi suất của các nước nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế hậu đại dịch Covid 19.
1. Lãi suất là gì ?
1.1 Khái niệm lãi suất
Lãi suất (interest rate) là tỷ lệ phần trăm giữa tiền lãi (hay chi phí phải trả) trên một số tiền nhất định để được sở hữu và sử dụng số tiền ấy trong một khoảng thời gian đã được thỏa thuận trước.
Khi sử dụng bất kỳ khoản tín dụng nào, người vay cũng phải trả thêm một phần giá trị ngoài phần vốn gốc vay ban đầu. Tỷ lệ phần trăm của phần tăng thêm này so với vốn vay ban đầu được gọi là lãi suất. Lãi suất cũng được xem là tỷ lệ sinh lời (rate of return) mà người chủ sở hữu thu được từ khoản vốn cho vay.
Có nhiều quan điểm khác nhau về lãi suất:
- Lãi suất là một hiện tượng tiền tệ phản ánh mối quan hệ giữa cung và cầu về tiền
- Lãi suất là một hiện tượng thực tế, được xác định bởi áp lực của năng suất – cầu về vốn cho mục đích đầu tư và tiết kiệm.
1.2 Phân loại lãi suất – Lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực
Có rất nhiều cách để phân loại lãi suất như căn cứ vào thời hạn tín dụng, căn cứ vào giá trị thực của lãi suất, vào mức ổn định hay phương pháp tính lãi suất, căn cứ vào nguồn tín dụng trong nước hay quốc tế. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ đưa ra cách phân biệt lãi suất dựa vào giá trị thực của lãi suất.
1.2.1 Lãi suất danh nghĩa (Nominal interest rate)
Là lãi suất tính theo giá trị danh nghĩa của tiền tệ vào thời điểm xem xét hay nói cách khác là loại lãi suất chưa loại trừ đi tỷ lệ lạm phát. Lãi suất danh nghĩa thường được công bố chính thức trong các hợp đồng tín dụng và ghi rõ trên công cụ nợ.
1.2.2 Lãi suất thực (Real interest rate)
Là lãi suất được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi về lạm phát, hay nói cách khác, là lãi suất đã loại trừ đi tỷ lệ lạm phát.
Lãi suất thực có hai loại:
- Lãi suất thực tính trước (dự tính): là lãi suất được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi dự tính về lạm phát.
- Lãi suất thực tính sau: là lãi suất được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi trên thực tế về lạm phát
Quan hệ giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa được phản ánh bằng phương trình:
Lãi suất danh nghĩa = lãi suất thực + tỷ lệ lạm phát
Vì được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi về lạm phát nên lãi suất thực phản ánh chính xác khoản thu nhập thực tế từ tiền lãi mà người cho vay nhận được hay chi phí thực của việc vay tiền.
Lãi suất thực tế là lãi suất quan trọng nhất cho các quyết định kinh tế được các nhà kinh tế sử dụng như một công cụ để tính toán lượng thu nhập hoặc các ích lợi thực tế của một quyết định kinh tế.
Sự phân biệt giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa có một ý nghĩa rất quan trọng. Bởi lẽ, chính lãi suất thực chứ không phải lãi suất danh nghĩa ảnh hưởng đến đầu tư, đến việc tái phân phối thu nhập giữa những con nợ và chủ nợ, sự lưu thông về vốn ngắn hạn giữa các nước khác nhau.
2. Ảnh hưởng của lãi suất đến nền kinh tế
Như chúng ta đã biết, nền kinh tế là được ví như một cơ thể sống và mọi thành phần trong nền kinh tế liên kết sâu sắc với nhau. Khi Ngân hàng trung ương thay đổi lãi suất cho vay đối với các ngân hàng thương mại, những thay đổi đó sẽ được chuyển sang phần còn lại của nền kinh tế.
Bởi vậy, quyết định chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương mà quan trọng nhất là điều chỉnh mức lãi suất có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sức mạnh và hướng đi của nền kinh tế.
Hiểu được chiều hướng của lãi suất ảnh hưởng đến nền kinh tế như thế nào có thể hữu ích trong việc định vị tài chính và đầu tư của bạn một cách hợp lý. Tuy nhiên, hiểu cách lãi suất tương tác với các chỉ số kinh tế khác có thể dự đoán nhiều hơn về các điều kiện kinh tế trong tương lai. Tác động của biến động lãi suất đến nền kinh tế được tóm tắt như sau:
- Khi lãi suất tăng và lạm phát (Chỉ số giá tiêu dùng) giảm, nền kinh tế không tăng trưởng quá nhanh là điều tốt.
- Khi lãi suất đang tăng và tăng trưởng kinh tế (được đo bằng Tổng sản phẩm quốc dân) đang chậm lại hoặc giảm, nền kinh tế có thể đang chậm lại quá mức, dẫn đến suy thoái.
- Nếu lãi suất đang giảm và tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) đang dần tăng lên thì đó là dấu hiệu khả quan.
- Nếu lãi suất giảm và lạm phát tăng, lạm phát càng tăng.
2.1 Ảnh hưởng của lãi suất đến hành vi tiêu dùng và sản xuất của xã hội
Diễn biến của lãi suất có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống hàng ngày của mỗi chủ thể kinh tế. Nó tác động đến những quyết định của các cá nhân như chi tiêu hay tiết kiệm, mua nhà hay mua trái phiếu hay gửi tiền vào một tài khoản tiết kiệm. Đối với các doanh nghiệp, lãi suất cũng tác động đến những quyết định kinh tế như: dùng tiền để đầu tư mua thiết bị mới cho các nhà máy hoặc để gửi tiết kiệm trong một ngân hàng.
Lãi suất tăng làm giảm sức hấp dẫn trong việc chi tiêu hiện tại hơn cũng như chi tiêu trong tương lai của cá nhân và doanh nghiệp. Tín dụng trong nước, tổng lượng tiền và cầu thực tế đều giảm (nếu lãi suất giảm sẽ có tác động ngược lại). Chi tiêu của người tiêu dùng giảm có tác động làm chậm lại nền kinh tế.
Cụ thể, khi lãi suất thực tăng lên, đối với hộ gia đình sẽ giảm nhu cầu mua sắm nhà ở hoặc các hàng tiêu dùng lâu bền do chi phí tín dụng để mua các hàng hoá này tăng lên. Cùng với lãi suất cho vay, lãi suất tiền gửi thực cũng tăng lên. Sự gia tăng lãi suất này tác động tới quyết định tiêu dùng của khu vực hộ gia đình theo hướng giảm tiêu dùng hiện tại và tăng tiết kiệm để cho tiêu dùng trong tương lai.
Đối với khu vực doanh nghiệp, lãi suất tăng làm tăng chi phí vốn vay ngân hàng. Điều này đòi hỏi dự án đầu tư sử dụng vốn vay ngân hàng phải có tỷ lệ lợi nhuận lớn hơn và kết quả là số dự án đầu tư có thể thực hiện với mức lãi suất cao hơn này có thể giảm, dẫn đến đầu tư cố định có thể giảm. Ngoài ra, lãi suất tăng cũng làm tăng chi phí lưu giữ vốn lưu động (ví dụ như hàng trong kho) và do vậy, tạo sức ép các doanh nghiệp phải giảm đầu tư dưới dạng vốn lưu động.
Ngược lại, với mức lãi suất thấp các doanh nghiệp có thể tận dụng lợi thế của chi phí tiền tệ thấp để phát triển và mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh.
Lãi suất còn có tác động làm phân phối lại thu nhập: Lãi suất tăng cao hơn sẽ phân phối lại thu nhập từ người vay tiền sang người gửi tiền. Điều này làm tăng sức chi tiêu của người tiết kiệm, nhưng sự chi tiêu này bị hạn chế bởi mức tiêu dùng cận biên (phần chi tăng thêm cho tiêu dùng trong mỗi giá trị thu nhập tăng thêm).
Có thể thấy tác động của lãi suất trên thị trường tiền tệ đã có tác động tương đối rõ nét đến hành vi tiết kiệm, tiêu dùng của cá nhân và đầu tư của doanh nghiệp qua đó sẽ có tác động đến tổng cầu của nền kinh tế, đến tăng trưởng kinh tế và lạm phát.
Tuy nhiên, tác động của lãi suất đến hành vi tiêu dùng và sản xuất của xã hội nhiều hay ít, nhanh hay chậm, tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế xã hội của mỗi quốc gia, trong từng quốc gia thì mỗi giai đoạn phát triển của thị trường tài chính thì mức độ tác động của lãi suất cũng khác nhau.
2.2 Lãi suất và đầu tư
Quá trình đầu tư của các doanh nghiệp vào tài sản cố định (máy móc, công trường, nguyên vật liệu) chỉ được thực hiện khi họ dự tính lợi nhuận thu được từ vốn đầu tư vào các tài sản cố định này lớn hơn số lãi phải trả cho các khoản đi vay để đầu tư. Vì lãi suất phản ánh chi phí vốn để tài trợ cho đầu tư, việc tăng lãi suất làm giảm số lượng dự án đầu tư có lãi, bởi vậy nhu cầu về hãng đầu tư giảm do đó đầu tư tỷ lệ nghịch với lãi suất. Nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra rằng mối quan hệ giữa lãi suất và sản lượng là âm.
Lãi suất thực tế phản ánh chi phí thực sự của tiền vay do vậy chúng ta nhận định đầu tư phụ thuộc vào lãi suất thực tế chứ không phải lãi suất là lãi suất danh nghĩa. Mối quan hệ giữa lãi suất thực tế (r) và đầu tư có thể biểu thị bằng phương trình sau: I = I(r).
Phương trình này hàm ý đầu tư phụ thuộc vào lãi suất.
Đồ thị biểu thị hàm đầu tư, nó dốc xuống vì khi lãi suất tăng lượng cầu về đầu tư giảm.
2.3 Lãi suất và lạm phát (Inflation)
Lạm phát là sự tăng lên liên tục của mức giá chính là hiện tượng mất giá của đồng tiền. Lý thuyết và thực tiễn đã thừa nhận mối quan hệ chặt chẽ giữa lãi suất và lạm phát. Fisher chỉ ra rằng lãi suất tăng cao trong thời kỳ lạm phát cao. Có nhiều nguyên nhân gây nên lạm phát và cũng có nhiều biện pháp để kiểm soát lạm phát, trong đó công cụ lãi suất là một giải pháp có hiệu quả nhanh chóng.
Trong thời kỳ lạm phát, điều chỉnh tăng lãi suất sẽ cho phép hệ thống ngân hàng có thể thu hút phần lớn số tiền có trong lưu thông khiến cho đồng tiền trong lưu thông giảm; cơ số tiền và lượng tiền cung ứng giảm, nhờ đó lạm phát được kiềm chế.
Nói chung, lãi suất tăng không thân thiện với nền kinh tế đang phát triển hoặc thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, trong việc làm chậm nền kinh tế, nó có tác dụng kiềm chế lạm phát, mà nếu không được kiểm soát, tình hình còn tồi tệ hơn nhiều. Lãi suất giảm giúp kích thích nền kinh tế. Tuy nhiên, nếu nền kinh tế tăng trưởng quá nhanh, cũng có thể gây ra lạm phát.
2.4 Lãi suất và tỷ giá
Lãi suất và tỷ giá chỉ có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau một cách gián tiếp, chứ không phải là mối quan hệ trực tiếp và nhân quả. Trong thời gian ngắn hạn, hai công cụ này sẽ ảnh hưởng theo thuyết ngang giá lãi suất. Tức là khi có sự chênh lệch lãi suất giữa hai quốc gia sẽ được bù đắp lại bằng sự chênh lệch giữa tỷ giá của 2 loại đồng tiền của hai quốc gia này.
Tuy nhiên, lãi suất và tỷ giá lại có mối quan hệ chặt chẽ hữu cơ với nhau. Đây là hai công cụ song hành quan trọng của chính sách tiền tệ, do đó việc cải cách chính sách điều hành ngân hàng hai yếu tố này đòi hỏi phải được tiến hành đồng thời.
- Lãi suất trong nước tăng => nguồn vốn nước ngoài (USD) vào nhiều => ngoại tệ mất giá (nội tệ có giá) => tỷ giá giảm
- Ngược lại, khi lãi suất giảm xuống => vốn trong nước đổ ra nước ngoài (cầu USD tăng) => Ngoại tệ có giá (Nội tệ mất giá) => tỷ giá tăng
3. Vai trò điều tiết lãi suất của Ngân hàng trung ương
NHTW với chức năng quan trọng nhất là cơ quan có quyền tối cao trong việc điều tiết được cung tiền của nền kinh tế, chủ động tác động đến lãi suất thị trường, nhằm hướng tới mục tiêu kiểm soát lạm phát.
Trên thực tế, NHTW điều chỉnh tăng lãi suất chính thức có thể có ảnh hưởng mạnh đến giảm lạm phát. Điều này càng đúng hơn trong nền kinh tế có hệ thống tài chính mở và cạnh tranh hơn, khi đó nhiều hợp đồng được ký kết trên cơ sở lãi suất thả nổi hơn là trên cơ sở lãi suất cố định, lúc đó những thay đổi trong lãi suất chính thức càng có ảnh hưởng đến lãi suất khác và tỷ giá.
Ngược lại, trong hoàn cảnh nền kinh tế gặp khủng hoảng, Ngân hàng Trung ương sẽ có động thái giảm đồng bộ các mức lãi suất cùng với thực thi nhiều giải pháp kích thích kinh tế, hỗ trợ tài khóa với quy mô lớn nhằm hỗ trợ sự phục hồi của nền kinh tế.
4. Bài toán hạ lãi suất để kích thích tăng trưởng hậu đại dịch
Xu hướng giảm lãi suất là khá rõ nét và nhiều chuyên gia dự báo khả năng lãi suất tiếp tục giảm thêm trong thời gian tới nếu dịch bệnh còn kéo dài. Về mặt lý thuyết, khi lãi suất cho vay giảm, thì sẽ tăng khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp, từ đó làm tăng trưởng tín dụng.
Không chỉ Việt Nam, thực tế các nước trên thế giới dùng chính sách tài khóa và tiền tệ theo hướng nới lỏng có kiểm soát trong bối cảnh nhiều nước bơm tiền, tăng thâm hụt ngân sách để kích thích tăng trưởng. Cụ thể, Ngân hàng Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đã cắt giảm lãi suất cơ bản về gần 0%, trong bối cảnh dịch bệnh hành hoành. Đây được xem là bước đi cần thiết và kịp thời khi thị trường tài chính Mỹ đã phát đi tín hiệu chao đảo và gặp khó khăn về khả năng thanh khoản.
Lãi suất thấp luôn là mong muốn của doanh nghiệp, đặc biệt với Việt Nam, khi mà thị trường chứng khoán và thị trường trái phiếu chưa đóng vai trò là kênh huy động vốn lớn cho doanh nghiệp, các khoản đầu tư dài hạn tới vay ngắn hạn phụ thuộc chủ yếu vào ngân hàng.
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang trên con đường hồi phục, như thị trường chứng khoán cũng tăng điểm những ngày qua, thị trường vàng có thể tăng giá, còn thị trường bất động sản đang được cho là điểm đến có vẻ hấp dẫn người dân. Nhưng thực sự những thị trường hiện tại này không có sự ổn định, trong khi gửi tiết kiệm đồng nội tệ tương đối vững giá nên giảm lãi suất có lẽ không ảnh hưởng lớn đến việc gửi tiền tiết kiệm tại các ngân hàng.
Các chuyên gia đều dự báo lãi suất sẽ hạ tiếp, nhưng tuỳ vào nhu cầu vay vốn, tình hình kinh tế từ nay đến cuối năm. Nếu nhu cầu vay không cao hoặc các ngân hàng thận trọng trong vấn đề vay vốn hiện tại để đề phòng rủi ro nợ xấu, khả năng sẽ không cần tăng lãi suất huy động. Ngược lại, từ nay đến cuối năm nếu nền kinh tế phục hồi mạnh mẽ, nhu cầu vay tăng lên, khả năng các ngân hàng sẽ tăng lãi suất huy động.
Theo Ngân hàng Thế giới (WB), nới lỏng chính sách tiền tệ và tín dụng dễ dàng tạo ra nguồn vốn đệm mà các doanh nghiệp bị ảnh hưởng mong chờ, nhưng cần giám sát chặt chẽ khi các ngân hàng ngày càng phải đối mặt với suy thoái kinh tế, ảnh hưởng đến chất lượng tài sản, nợ phải trả và khả năng sinh lời theo thời gian.
Cắt giảm lãi suất lần này ở các ngân hàng Trung Ương trên toàn thế giới trong ngắn hạn sẽ củng cố niềm tin đối với nhà đầu tư, giúp thị trường tránh được những cú sốc quá lớn, đảm bảo nền kinh tế không bị tác động quá tiêu cực. Tuy nhiên, về trung hạn, khi đối mặt với sự sụt giảm nguồn cung thì nới lỏng chính sách tiền tệ không phải là giải pháp toàn diện.
Vì vậy, giảm lãi suất từ từ và thận trọng có lẽ là cách đi phù hợp trong giai đoạn hiện tại, bởi lãi suất là công cụ điều tiết quan trọng cho nền kinh tế, luôn cần một cách để đảm bảo công cụ này “còn dư địa” (không gian tài khóa) trong những trường hợp khẩn cấp.
VnRebates – Hoàn tiền Trading số 1 Việt Nam