Những biến động xảy ra trên thị trường có thể được dự đoán và độ chính xác của những dự đoán đó khác nhau và do đó, nhiều lý thuyết giao dịch khác nhau đã được tạo ra như Lý thuyết sóng Elliott, Gartley, Gann và nhiều lý thuyết khác. Mục đích chính của tất cả các lý thuyết này là để dự đoán các hành động giá sẽ xảy ra ở phía bên phải của biểu đồ.
Khi nói đến các sóng điều chỉnh phức tạp như mô hình sóng ZigZag ba (Triple ZigZag), trong trường hợp đó, giai đoạn điều chỉnh thứ hai (second correction) và thứ ba (third correction) thực sự có thể được xác định bằng cách sử dụng kỹ thuật với cái tên waterfall effect (Hiệu ứng thác nước).
Rất nhiều trader trong lĩnh vực Forex hay Quyền chọn nhị phân tìm kiếm các cơ hội giao dịch ngược xu hướng hay giao dịch đảo chiều. Thực tế cũng đã chứng minh nhiều phi vụ thành công, tuy nhiên rất có thể sẽ xảy ra một mô hình waterfall. Vì vậy, chiến lược giao dịch đảo chiều này có thể rất nguy hiểm.
Trong bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu ý nghĩa của hiệu ứng waterfall và phương pháp giao dịch với hiệu ứng này.
1. Hiệu ứng Waterfall trong giao dịch là gì ?
Hiệu ứng thác nước Waterfall là một ảo ảnh thị giác được tạo ra bằng cách xem một vật thể chuyển động chẳng hạn như nước chảy, sau đó nhìn vào một vật thể đứng yên. Ảo tưởng là vật thể đứng yên sẽ chuyển động ngược hướng với vật thể chuyển động ban đầu. Vậy hiệu ứng này trong giao dịch được hiểu như thế nào ?
1.1 Khái niệm waterfall trong giao dịch
Waterfall là một chuỗi các nến xanh hoặc đỏ xảy ra liền kề, trong khi trader đang cố tìm điểm đảo chiều. Theo kinh nghiệm của tôi thì waterfall có thể từ 5 đến hơn 20 nến trong một chuỗi liên tiếp trước khi xảy ra đảo chiều.
Bạn hãy xem ví dụ dưới đây về một biểu đồ về dầu thô của Mỹ với những cây nến màu đỏ với xu hướng giảm liên tục để thấy rõ một mô hình waterfall trong giao dịch dầu như thế nào.
Chúng ta cùng xét một ví dụ khác về hiệu ứng waterfall trong giao dịch Forex.
Dưới đây là hai ảnh chụp màn hình từ các biểu đồ EURGBP và AUDJPY, bạn có thể xem để hình dung rõ hơn một waterfall trong trade trông như thế nào:
Như bạn có thể thấy trong biểu đồ EURGBP, chúng ta có 8 cây nến xanh liên tiếp, tiếp theo là một màu đỏ và sau đó tiếp tục 4 màu xanh lá cây khác. Tương tự trong AUD, chúng ta có 7 cây nến đỏ liên tiếp, tiếp theo là một cây nến Doji và sau đó là 5 cây nến đỏ liên tiếp.
1.2 Phân tích ý nghĩa của hiệu ứng Waterfall trong giao dịch
Lý thuyết Sóng Elliott phụ thuộc nhiều vào các số Fibonacci. Nếu không có số Fibonacci, thì việc đếm sóng với nguyên tắc Elliott đơn giản là không thể. Cho đến nay, chúng ta đã biết tỷ lệ Fibonacci được sử dụng ở khắp mọi nơi: khi thiết lập một mô hình là hình Zigzag hay mô hình phẳng (flat pattern); khi tính toán sóng kéo dài của một động thái Impulsive (là giai đoạn thị trường đi lên hoặc đi xuống một cách mạnh mẽ theo một chiều.
Đó là do sự mất cân bằng giữa lượng mua hoặc bán trên thị trường); và khi tìm kiếm các mức thoái lui trong sóng nhỏ x và lớn.
Số Fibonacci có ở khắp mọi nơi trong lý thuyết Sóng Elliott! Tuy nhiên, tỷ lệ Fibonacci có nhiều công dụng hơn nữa, không chỉ trong việc hiển thị loại mô hình mà thị trường đang hình thành. Chúng có thể được sử dụng để tìm điểm cuối chính xác của một mô hình hoặc mục tiêu cho một giao dịch cụ thể.
Một trong những tình huống này là cái gọi là hiệu ứng waterfall. Mặc dù hiệu ứng được liên tưởng đến hình ảnh thác nước nhưng nó không chỉ đề cập đến các động thái giảm giá thị trường, mà còn đề cập đến các động thái tăng giá.
Yêu cầu duy nhất mà nhà giao dịch phải đáp ứng đối với kỹ thuật này là đo độ dài của lần điều chỉnh đầu tiên bằng cách sử dụng công cụ Fibonacci thoái lui và sau đó lấy 61,8% từ đó và lập dự báo về độ dài của lần điều chỉnh đầu tiên. Kết quả của hành động đó sẽ là sự kết thúc của lần điều chỉnh thứ hai.
Ngoài ra, bằng cách giảm lần hiệu chỉnh đầu tiên xuống 38,2% và bằng cách dự đoán kết quả vào cuối lần hiệu chỉnh thứ hai sẽ dẫn đến việc chúng ta nhận ra sự kết thúc của lần hiệu chỉnh thứ ba và do đó kết thúc của toàn bộ hiệu chỉnh phức tạp đã xuất hiện.
Hiệu ứng thác nước mà chúng tôi đã đề cập ở đây là một trong những mô hình phức tạp nhất xuất hiện trong phân tích kỹ thuật và lý do chính cho điều đó là thực tế là nó chỉ được tạo ra bởi các sóng điều chỉnh. Trong trường hợp này, điều đó có nghĩa là mỗi mô hình xuất hiện trong phân tích này là mô hình điều chỉnh chứ không phải mô hình Impulsive.
Điều này rất quan trọng trong trường hợp, ví dụ, khi hiệu ứng waterfall đang xuất hiện trong xu hướng giảm giá. Trong trường hợp đó, chúng ta nên cố gắng mua các tùy chọn bán ở mức độ thoái lui đã được đưa ra bởi hai đợt điều chỉnh thực sự đi theo hướng ngược lại.
2. Giao dịch với hiệu ứng Waterfall như thế nào ?
Trước khi đi vào chi tiết hơn về hiệu ứng waterfall, chúng ta có thể thấy rằng việc phân tích hiệu ứng waterfall chỉ có thể được sử dụng với các sóng điều chỉnh (corrective waves). Hơn nữa, trong số tất cả các sóng điều chỉnh có thể có với lý thuyết Elliott, điều này chỉ đề cập đến Triple combination – là một dạng phức tạp được tạo bởi ít nhất 3 sóng điều chỉnh kết nối bởi hai sóng x (x-waves) nhỏ.
Vì vậy, hiệu ứng Waterfall ở đây đề cập đến: sự luân phiên của ba sóng điều chỉnh đơn giản. Về cơ bản việc phân tích hiệu ứng waterfall là việc giải thích độ dài có thể có của lần điều chỉnh sóng thứ hai và thứ ba dựa trên độ dài của lần điều chỉnh đầu tiên sử dụng tỷ lệ Fibonacci. Giao dịch với hiệu ứng Waterfall có thể được thực hiện theo cả hướng của sự điều chỉnh phức tạp và cả khi cố gắng chọn đỉnh hoặc đáy mà thị trường có thể hình thành. Phương pháp này bao gồm các bước sau:
2.1 Sử dụng chiều dài của lần điều chỉnh sóng thứ nhất (first Correction)
Các trader sẽ không biết khi nào một sự điều chỉnh phức tạp sẽ hình thành. Tất cả những gì mà các nhà giao dịch biết tại bất kỳ thời điểm nào là sau một sóng Impulsive, một sự điều chỉnh sẽ xảy ra sau đó. Nếu sự điều chỉnh là một sự điều chỉnh đơn giản, nó phải được xác nhận bằng hành động giá trong tương lai. Nếu không có sự xác nhận, thì lần điều chỉnh sẽ là điều chỉnh phức tạp (complex correction).
Điều này có nghĩa là ít nhất một sóng x sẽ theo sau và điều này sẽ mang lại nhiều thời gian cho kế hoạch giao dịch hiệu ứng waterfall tổng thể được thực hiện. Một kế hoạch như vậy nên bắt đầu từ thời điểm sóng x hoàn thành và thị trường di chuyển sau khi kết thúc đợt điều chỉnh đầu tiên. Tại thời điểm này, chúng ta không biết liệu thị trường sẽ hình thành một sự điều chỉnh kép hay ba; nhưng hiệu ứng Waterfall sẽ cung cấp cho chúng ta manh mối về những gì mong đợi. Để giải câu đố này, cần thực hiện những việc sau:
- Đo độ dài của lần điều chỉnh đầu tiên bằng công cụ thoái lui Fibonacci để đo 61,8% của lần điều chỉnh này. Hiện tại chúng ta biết rằng một sự điều chỉnh phức tạp không thể bắt đầu bằng một hình tam giác, vì vậy hai khả năng duy nhất còn lại là một mặt phẳng hoặc một mô hình Zigzag sẽ xuất hiện lần điều chỉnh đầu tiên. Do đó, công cụ Fibonacci nên được kéo từ lúc bắt đầu của mô hình phẳng hoặc Zigzag cho đến khi kết thúc.
- Bước tiếp theo là thực hiện bước di chuyển đo được 61,8% và đặt nó vào cuối sóng x đầu tiên của mô hình flat hoặc Zigzag được hình thành trước đó như phần đầu tiên của sự hiệu chỉnh phức tạp.
Khi thực hiện các bước trên, các trader có thể đưa ra dự đoán về vị trí kết thúc của đợt điều chỉnh thứ hai. Nếu thị trường thực sự đi đến mức di chuyển được đo 61,8% đó và phản ứng ở mức đó, điều đó có nghĩa là một sự Triple combination sẽ xuất hiện ngay sau đó.
Mặt khác, nếu không có phản ứng ở mức đó, hoặc thậm chí có thể không đạt được mức đó, điều đó có nghĩa là sự hiệu chỉnh phức tạp rất có thể là sự kết hợp kép. Bằng cách này, chúng ta đã thiết lập bản chất của mẫu sắp hình thành dựa trên điều kiện đầu tiên của cái gọi là hiệu ứng Waterfall.
2.2 Sử dụng chiều dài của đường điều chỉnh thứ hai
Nếu thị trường phản ứng với động thái đo được 61,8% như đã giải thích ở trên, thì sẽ diễn ra giao dịch đảo chiều. Ý tưởng ở đây là giao dịch mức thoái lui của sóng x và ta biết rằng không thể để mức thoái lui như vậy kéo dài hơn 61,8% của lần điều chỉnh thứ hai. Mục tiêu thích hợp phải là 38,2% của lần điều chỉnh thứ hai và mức cắt lỗ phải được đặt dựa trên tỷ lệ rủi ro/phần thưởng.
Tỷ lệ như vậy ít nhất phải là 1: 2 ở mức bình thường, nhưng trong trường hợp này, ngay cả 1: 1 cũng là đủ vì ta đang giao dịch với một mức thoái lui nhỏ. Vào thời điểm mức thoái lui 38,2% của đợt điều chỉnh thứ hai đến, một giao dịch theo hướng của triple combination sẽ được mở ra. Về cơ bản đây là một giao dịch đảo chiều: Nếu giao dịch trước đó là một giao dịch LONG, thì giao dịch này phải là một giao dịch SHORT. Ý tưởng đằng sau nó là giao dịch với sự điều chỉnh thứ ba trong Triple combination.
Nếu bạn đã từng nghiên cứu về giao dịch trong trường hợp Triple combination, bạn sẽ thấy rằng các mẫu này hầu như luôn kết thúc bằng một mẫu hình tam giác thu hẹp (contracting triangle). Điều đó cho biết loại hiệu chỉnh thứ ba là: mẫu hình tam giác thu hẹp (contracting triangle). Vậy cơ hội giao dịch ở đây là gì? Việc trader cần làm là sử dụng lại công cụ Fibonacci thoái lui để đo độ dài của lần điều chỉnh thứ hai trong mô hình Triple combination: lấy 38,2% trong số đó và áp dụng nó vào cuối đợt điều chỉnh thứ hai này.
Kết quả sẽ cho thấy vùng mà ở đó sóng x của mẫu hình tam giác thu hẹp xuất hiện, đoạn cuối cùng của mô hình Triple combination, được cho là kết thúc ở đây. Vùng này được xem là khởi đầu cho một giao dịch đảo chiều.
Tuy nhiên khi giao dịch theo phương pháp này, trader cần lưu ý là giao dịch này cần thời gian để quyết định và mô hình triple combination hiếm khi co lại hoàn toàn, vì vậy việc chọn điểm thoát lệnh cho giao dịch này không nên xem xét việc thoái lui hoàn toàn. Một chốt lời thông thường nên được đặt ở bất kỳ nơi nào trong khoảng 50% đến 61,8% thoái lui từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc mô hình Triple combination.
2.3 Sử dụng công cụ Fibonacci thoái lui (Fibonacci Retracement để xác định quy mô vị thế trong giao dịch
Điểm đáng chú ý của phương pháp giao dịch với hiệu ứng Waterfall chính là việc áp dụng công cụ Fibonacci thoái lui để xác định quy mô vị thế trong giao dịch.
Nếu lần điều chỉnh đầu tiên với xu hướng sụt giá là một đường Zigzag thì sóng x – sóng đang điều chỉnh nó, phải là một sóng đơn giản và không có khả năng thoái lui hơn 61,8% so với tổng khoảng cách mà giá đang di chuyển từ đầu của đường Zigzag cho đến khi kết thúc. Tuy nhiên, việc sử dụng mức thoái lui Fibonacci cho bạn cơ hội mở rộng quy mô vào một vị thế giao dịch.
Ví dụ: mua các hợp đồng BÁN (SELL contracts)/quyền chọn bán (PUT options) trên mức thoái lui đến mức 23,6%, sau đó thoái lui đến mức 38,2%, v.v., trong khi sự điều chỉnh ngày hết hạn tùy thuộc vào khung thời gian được xem xét.
Trong một mô hình giảm giá áp dụng hiệu ứng thác nước, các hợp đồng MUA (BUY contracts)/quyền chọn mua (CALL options) cũng có thể được giao dịch. Các giao dịch này chỉ nên được thực hiện sau khi giá hình thành sóng điều chỉnh cuối cùng. Sóng điều chỉnh cuối cùng này thông thường là một hình tam giác và Strike price (giá thực hiện) cho giao dịch nên được đưa ra vào thời điểm thị trường thiết lập mức thấp mới sau khi sóng x vừa hoàn thành.
Trong trường hợp này, điều đó có nghĩa là sóng a được đặt tại chỗ và trong các hình tam giác như vậy báo hiệu đáy , sóng a thường là sóng dài nhất. Điều này làm cho một vị thế LONG từ mức đó trở nên cực kỳ hấp dẫn.
3. Trader nên làm gì sau khi hiệu ứng waterfall kết thúc ?
Câu trả lời thực sự phụ thuộc vào thực tế là hiệu ứng waterfall đã xuất hiện ở đâu và ý nghĩa của sự xuất hiện đó ở bên phải màn hình là gì. Hãy xem một ví dụ sau:
Nếu rõ ràng rằng waterfall đã xuất hiện dưới dạng một sóng thứ hai được mô tả là một Impulsive move – điều này không thường xuyên xảy ra – thì trong trường hợp đó, chúng ta nên sẵn sàng cho một động thái Impulsive mạnh mẽ sẽ đến như một sóng thức 3, các tùy chọn mua (CALL options) có ngày đáo hạn lớn hơn chính là điều mà tôi đề xuất.
Lý do chính cho kiểu suy nghĩ đó là thực tế là vị vua bị trả lại từ khu vực nhất định có thể sẽ không gây ra phản hồi. Tuy nhiên, phần lớn người mua sẽ ngay sau khi lệnh dừng nới lỏng được kích hoạt vào thời điểm thị trường thực sự tạo ra mức cao mới và bên cạnh đó, những bulls mới hình thành cũng sẽ xuất hiện.
Cũng có thể là mô hình đó đang thực sự xuất hiện như một chân hoàn chỉnh của tam giác thu hẹp (contracting triangle), và khi đó nó sẽ được theo sau bởi 1 sóng điều chỉnh. Tuy nhiên, sự điều chỉnh trong trường hợp đó sẽ diễn ra theo hướng ngược lại.
Cuối cùng, khi có một động thái Impulsive đặc biệt xuất hiện, chẳng hạn như khi tất cả các chân của contracting triangle đều được điều chỉnh, thì chân cuối cùng hoặc chân thứ năm có thể tạo thành một triple combination để tạo ra hiệu ứng waterfall. Điều cuối cùng là trader cần biết loại mô hình này sẽ xuất hiện nhiều nhất trong trường hợp thị trường thực sự tạo ra các đường ZigZag ba hoặc triple combination.
Ngoài ra, loại mô hình này sẽ không xuất hiện trong các động thái Impulsive và do đó, trong các tình huống khi sự điều chỉnh phức tạp thực sự được hình thành sẽ cho chúng ta mức striking price hoàn hảo.
Kết luận
Hiệu ứng Waterfall trong giao dịch là hiện tượng giá di chuyển liên tục theo xu hướng giảm hoặc tăng thể hiện qua các cây nên xanh hoặc đỏ liên tiếp nhau. Nhà đầu tư thường tận dụng hiệu ứng này để phán đoán và tìm ra cơ hội giao dịch đảo chiều. Tuy nhiên cách tiếp cận như trên tiềm ẩn khá nhiều rủi ro.
Hy vọng qua bài viết trên với những phương pháp giao dịch với hiệu ứng này sẽ hữu ích cho trader về việc tìm ra xem khi nào thị trường thực sự đảo chiều và đâu là cơ hội để mở vị thế giao dịch trong thời điểm đó. Nếu trader muốn thử sức giao dịch với theo phương pháp này, điều tiên quyết là phải tuân thủ chặt chẽ theo từng bước theo hướng dẫn ở trên và chờ đợi vào may mắn của bản thân để kiếm lợi nhuận.